Mục lục
Tìm về các thư tịch cổ thấy nhiều sách đã nói về rượu. Lĩnh Nam chích quái khẳng định từ xa xưa, dân ta đã biết “lấy vỏ cây làm áo, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cá, tôm làm mắm…”.
Nhiều sách viết rượu có trước thời Hùng Vương, được làm từ gạo. Hầu hết các sách đều thống nhất trong việc sử dụng (mục đích) rượu vào việc tế lễ. Có sách thuật lại truyện vua Lý Thái Tổ đi tuần, đến nơi thấy sông núi tươi đẹp, cảm xúc, liền lấy rượu khấn rằng: “Nơi này cảnh đẹp, nếu có thần linh hạo khí thì xin nhận rượu của trẫm”. Quả nhiên đêm ấy, vua nằm mộng thấy vị thần xưng là Lý Phục Man… Như vậy, cha ông ta đã biết chế tác rượu, chủ yếu dùng vào việc tế lễ trời đất, tổ tiên và các nghi lễ quan trọng khác
Câu “Vô tửu bất thành lễ” (không có rượu không thành lễ) xuất hiện trong văn hóa Đại Việt có lẽ từ thời Nho giáo đã hưng thịnh. Vì nguyên ủy câu này có từ rất lâu bên Trung Hoa cổ đại, trước cả thời Khổng Tử. Dùng rượu vào việc tế lễ, có thể coi câu của Chu Văn Vương là tiêu biểu: “Tế tự thì dùng rượu. Trời xuống mệnh cho dân biết nấu rượu chỉ là dùng vào việc tế tự lớn”.
Có thể xuất phát từ tính chưng cất của rượu chiết xuất từ gạo kết hợp với thứ men lá đặc biệt. Mà gạo ngày xưa rất quý, gọi đó là “ngọc thực” nên dần dần qua tiếp biến văn hóa, rượu được coi là linh hồn của trời đất, vũ trụ, xứng đáng làm sứ giả để “nối” các vị thần thánh siêu nhiên với con người trần tục. Có sách còn chỉ ra rượu đủ có cả tinh-khí-thần, là tinh chất từ gạo nếp (tinh), hơi rượu tỏa trong không khí (khí), làm cho thần thái vui vẻ (thần)… Như dòng chảy nhẹ nhàng, sâu lắng, hình tượng rượu ngấm dần vào phong tục rồi biểu hiện ra những nét văn hóa rất sinh động. Trước hết là để cúng ông bà tổ tiên: “Rượu ngon chắt để bàn thờ…”. Rượu thể hiện tấm lòng thành của con cháu trong sáng, thảo thơm (như rượu) mong muốn tổ tiên thưởng thức thứ lễ vật tinh túy của trời đất mà phù hộ độ trì cho con cháu.
Tranh biếm họa của Quang Cường. |
Rượu không thể thiếu trong chuyện cưới hỏi. Cùng với cau trầu, rượu là lễ vật bắt buộc. Có bài ca dao: “Anh có thương em thì lo một buồng cau cho tốt, một hũ rượu cho đầy/ Đặt lên bàn thượng, hạ xuống bàn xây/ Chàng đứng đó, thiếp đứng đây/ Lẽ mô thầy với mẹ lại không kết nghĩa sum vầy cho con?”. Trước khi về nhà chồng, con gái phải mời rượu cha mẹ: “Rượu lưu ly chân quỳ tay rót/ Cha mẹ uống rồi dời gót theo anh”. Ở ngoài đời không có loại rượu nào tên “lưu ly”, ở đây hiểu là giờ phút thiêng liêng, cha mẹ uống chén rượu mừng chia tay con thành “gia thất”. Trong lễ hợp cẩn (lễ cuối của lễ tân hôn), vợ chồng uống chung một chén rượu đào và ăn chung một đĩa cơm nếp. Rượu đào là rượu ngon, màu hồng. Màu hồng là màu của hôn nhân, hạnh phúc. Ý nghĩa của lễ này cũng dễ hiểu: Cầu mong vợ chồng suốt đời hạnh phúc, say nhau như say rượu và dính nhau như dính… cơm nếp.
Rượu không thể thiếu trong ngày Tết. Là thứ để con người gần gũi hơn, vui vẻ, nồng nàn hơn. Tận xa xưa đã có tục lấy rượu là phần thưởng trong các cuộc vui ngày Tết. Theo sách Tùy thư (trong bộ Địa lý chí của Trung Quốc) thì ngoài dùng rượu vào việc tế lễ tổ tiên, người Việt (thời Bắc thuộc) còn dùng vào các trò vui “chơi đu, ném còn, hát múa, kéo co. Bên nào được cuộc thì uống rượu”.
Là thứ thiêng liêng, dân dã mà sang trọng, rượu không thể thiếu với giới tao nhân mặc khách. Với người quân tử thì phải sành “Cầm, kỳ, thi, họa/tửu”, cùng “bầu rượu, túi thơ” để “Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc” (Nguyễn Công Trứ). Hình tượng “bầu rượu” là có thật, rượu được rót vào vỏ quả bầu khô nhỏ, rất tiện cho việc đeo/mang trên người.
Rượu là hình tượng quen thuộc trong thơ Nguyễn Trãi: “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén”. Uống rượu cũng là uống trăng. Rồi “Túi thơ, bầu rượu quản xình xoàng/ Khỏe dụng đầm hâm mấy dặm đường”. Nhờ có “túi thơ, bầu rượu”, tức nhờ nghệ thuật, con người mới thêm ấm áp, thêm sức lực, thêm sự dẻo dai trên đường đời xa. Không còn là rượu thông thường mà là một ẩn dụ chỉ nghệ thuật, thứ nghệ thuật giúp đời, giúp người. Lại có câu thơ đầy ảo mộng: “Nguyệt mãn Bình Than tửu mãn thuyền” (Trăng chiếu đầy sông Bình Than, rượu chở đầy thuyền). Sông nước hay sông trăng? Thuyền rượu hay thuyền trăng? Trăng say, thuyền say, người say hay sông nước say? Say rượu, say thơ hay say cái đẹp? Một cái đẹp thoát tục! Đây không phải thơ của “thi nhân” mà phải là thơ của “thi tiên”!
Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du thì có cả một “thế giới” rượu có chung đặc điểm là không nhân vật nào “quá chén”. Chỉ là “chén xuân”, “chén hà”, “chén đồng”, “chén mồi”, “chén mừng”, “chén quan hà”, “chén quỳnh”, “chén thề”, “chén vàng”, “chén cúc dở say”, “chén đầy”, “chén vơi”, “chén xuân tàng tàng”… Rượu trong Truyện Kiều như chất keo gắn nối và gắn kết các nhân vật, cũng là sự thể hiện con người và các mối quan hệ của nhân vật.
Vị quan Doanh điền sứ-nhà thơ ngông Nguyễn Công Trứ say rượu một cách rất tình: “Còn trời, còn nước, còn non/ Còn cô bán rượu anh còn say sưa”. Ở thời hiện đại, nhà thơ Trần Huyền Trân mượn rượu tâm sự với Tản Đà, gan ruột, khắc khoải, đau mà nồng: “Rồi lên ta uống với nhau/ Rót đau lòng ấy vào đau lòng này”.
Nếu nói về “văn hóa rượu” thì Bác Hồ là người văn hóa nhất. Là người biết uống rượu nhưng Bác chỉ dùng rượu làm phương tiện giao tiếp cho câu chuyện thêm nồng ấm, đậm đà. Trong bài thơ Tặng đồng chí Trần Canh tại Việt Bắc (năm 1950), Bác chúc vui đồng chí tướng quân say rượu nhưng là cái say sau khi “chẳng cho tên địch nào thoát”. Khi tuổi cao, phải kiêng, không được thưởng thức ngoài đời, Bác “uống” trong thơ: “Trong mộng thuốc thơm và rượu ngọt/ Tỉnh ra thêm phấn chấn tinh thần” (Nhị vật).
Như vậy, rượu là hình tượng văn hóa tích cực đáng được nghiên cứu, tìm hiểu.
Nhưng viết nhiều hơn là phê phán cái sự say rượu. Ca dao châm biếm nhẹ nhàng mà sâu cay: “Ở đời chẳng biết sợ ai/ Sợ thằng say rượu nói dai tối ngày”. Dân gian khuyên răn người ta: “Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa/ Sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày”.
Trong văn học viết thì đề cập khá nhiều tấm gương xấu do say rượu dẫn đến hậu quả khôn lường. Khâm định Việt sử Thông giám cương mục phê phán Đỗ Thích là kẻ giết vua, lợi dụng “nhà vua đêm ăn yến, say rượu, nằm ở trong sân cung cấm” mà giết đi. Lời phê phán còn hướng đến cả vua không giữ nghiêm kỷ cương, ngược lại bê tha, sa đọa nên bị giết cũng đáng. Nhiều sách mỉa mai vua Lý Huệ Tông mắc bệnh tật do “uống rượu ngủ li bì đến hôm sau mới tỉnh”. Ở thời Trần, vua Trần Anh Tông từng say rượu xương bồ nên suýt bị Thượng hoàng truất ngôi. Rồi các vua hám rượu như Dương Nhật Lễ “rượu chè dâm dật”. Vua Lê Uy Mục bị lên án nặng nhất. Sách toàn thư phê: “Vua nghiện rượu, hiếu sát, hoang dâm”.
Thời Hồng Đức có tập thơ Nôm Thập giới cô hồn quốc ngữ văn (Mười bài văn răn các cô hồn) phê phán những kẻ ăn chơi (đãng tử) đàng điếm vô độ: “Ăn cà cuống lầm phải bọ hung/ Uống rượu thiêu lạt bằng nước lã”. Rượu thiêu là loại rượu ngon, nặng, có thể đốt cháy được, thế mà kẻ đãng tử uống như uống nước lã… Câu đầu là sự mỉa kín đáo: Vì say sưa nên dốt nát đến mức không phân biệt được cà cuống, bọ hung…
Các tôn giáo du nhập vào nước ta cũng không khuyến khích dùng rượu. Phật giáo cấm uống rượu vì cho rằng rượu là nguyên nhân gây nên nhiều tội lỗi.
Ngay từ tháng 10-1958, Bác Hồ đã nhận ra vấn đề này. Về thăm đồng bào Hòa Bình, ân cần mà nghiêm khắc, Bác căn dặn: “Đồng bào nấu rượu và uống rượu nhiều quá. Lâu lâu uống một chút thì không sao, nhưng uống nhiều thì không tốt”(*).
Rượu là hiện tượng văn hóa nên phải điều chỉnh, tác động bằng văn hóa. Mà văn hóa thì giáo dục bằng cách nêu gương là tốt nhất: Mỗi cán bộ, đảng viên, giáo viên, đoàn viên, bậc cha chú… nêu gương dùng ít rượu, bia; nêu gương tôn trọng sở trường, sở đoản của khách, không cố tình nài ép khách uống để say xỉn cho hả dạ. Tiếp đó, để “ma men” không gây bao khổ đau cho xã hội, các cơ quan hành chính dùng các biện pháp mang tính ngăn chặn, răn đe.
Theo PGS, TS NGUYỄN THANH TÚ – https://www.qdnd.vn/van-hoa/doi-song/truyen-thong-van-hoa-ruou-cua-nguoi-viet-635173